Lịch sử các phương pháp Quản lý doanh nghiệp

Quản lý doanh nghiệp (tiếng Anh: Corporate Management) là các cách thức tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ doanh nghiệp tới tập thể những người lao động trong doanh nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất những tiềm năng và cơ hội để tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội.

Bản chất của quản lý doanh nghiệp

Xét về mặt tổ chức và kĩ thuật của hoạt động quản trị, quản lý doanh nghiệp chính là sự kết hợp mọi nỗ lực của con người trong doanh nghiệp để đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp và mục tiêu riêng của mỗi người một cách hợp lí và hiệu quả nhất.

Đó là quá trình hợp tác và phối hợp công việc giữa các quản trị viên trong bộ máy với đội ngũ nhân sự trong quá trình làm việc và thông qua họ để thực hiện mục tiêu của các doanh nghiệp trong môi trường luôn luôn biến động.

Có thể nói, thực chất của quản lý doanh nghiệp là quản lý con người trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Quản lý doanh nghiệp thường bao gồm:

  • Chủ thể quản trị: là chủ doanh nghiệp và đội ngũ quản trị viên trong bộ máy quản trị doanh nghiệp.
  • Đối tượng bị quản lý: gồm những người lao động với phương hướng tác động quản trị thông qua các chức năng về lĩnh vực quản trị, hệ thống thông tin và quyết định của quản lý.

Ý nghĩa của hoạt động quản lý doanh nghiệp

Xét về kinh tế – xã hội thì lí do tồn tại của doanh nghiệp, mục đích hoạt động của doanh nghiệp là do chủ doanh nghiệp đề ra.

Hoạt động quản lý doanh nghiệp là nhằm thực hiện mục tiêu lợi ích của doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài, bảo toàn và phát triển vốn để đáp ứng được mong muốn của chủ sở hữu và mọi thành viên trong doanh nghiệp.

Quản lý doanh nghiệp chính là nhằm đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn.

Xem thêm  Danh sách 300+ group việc làm trên zalo, facebook phân theo ngành nghề, vị trí và theo 63 tỉnh thành

Các phương pháp quản lý trong lịch sử đã trải qua 3 giai đoạn chính:

Lich su cac phuong phap quan ly

Giai đoạn Quản lý bằng mệnh lệnh, phục tùng (MBOr – Management by Order)

Đây là phương thức quản lý trước thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.

Đây là thời kỳ mà ở phương tây, chủ nô coi những người nô lệ là những người không có khả năng làm việc phức tạp, mọi người chưa hiểu rõ về công việc, chỉ đơn giản là thực hiện theo những nhiệm vụ mà người chủ của mình giao.

Quản trị theo quy trình (MBP – Management by Process)

Adam Smith, tác giả của học thuyết kinh tế cổ điển đã nêu bật lợi thế kinh tế của việc phân công lao động đem lại cho tổ chức và xã hội. Trong cuốn An Inquiry into the nature and causes of Wealth of Nations (Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia) (1776), A. Smith giải thích rằng: phân công lao động là chia nhỏ các công việc thành những nhiệm vụ (thao tác) nhỏ hơn, lặp đi lặp lại, và nhờ vậy tăng được năng suất. Ví dụ, 10 công nhân làm đinh, nếu được chuyên môn hóa, có thể làm ra 48.000 chiếc trong 1 ngày, trong khi đó, nếu 1 công nhân làm toàn bộ các phần việc thì chỉ được 10 chiếc đinh trong một ngày.

Cuộc Cách mạng công nghiệp vào thế kỷ 18 tại Anh có thể được xem là sự kiện có ảnh hưởng quan trọng nhất đến khoa học quản trị. Trong giai đoạn này, máy móc thay thế cho lao động thủ công, cùng với sự phân công lao động đã tạo ra các công xưởng lớn, hiệu quả. Các tổ chức lớn hơn này đòi hỏi hoạt động quản lý chính tắc, từ việc dự báo nhu cầu, đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu, phân công lao động, đảm bảo máy móc được bảo quản và hoạt động trong điều kiện làm việc tốt nhất, các tiêu chuẩn công việc được duy trì, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm v.v. Nói cách khác, lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra đã trở nên cần thiết. Đây là phương thức bắt đầu từ thời kỳ cách mạnh công nghiệp lần thứ nhất (1903).

Xem thêm  7 phương pháp đào tạo nội bộ hiệu quả cho doanh nghiệp

Điển hình của phương pháp quản trị này là Henry Ford – người sáng lập ra hãng xe Ford, ông phát hiện ra rằng việc mỗi công nhân phải làm rất nhiều việc theo yêu cầu (order), phải di chuyển quá nhiều và không mang lại hiệu suất cao. Vì vậy cần sắp xếp mọi người thành 1 dây chuyền sản xuất, có quy trình và từng bước cụ thể. Mỗi người chỉ việc làm tại 1 vị trí nhất định sẽ có hiệu suất tốt hơn.

Sau đó ông đã sáng tạo ra sản xuất kiểu dây chuyền. Con người chỉ việc đứng yên và máy móc sẽ chạy xung quanh con người.

Quản trị bằng mục tiêu (MBOb – Management by Objectives)

Bắt đầu từ 1950, Peter Drucker (Cha đẻ của ngành quản trị học hiện đại) đã xuất bản cuốn sách The Effective Executive (Nhà quản trị thành công) trong đó ông đưa ra khái niệm về quản trị mục tiêu MBO.

Quan điểm của Peter Drucker cho rằng con người có suy nghĩ và tình cảm, việc coi con người như máy móc và làm việc theo mệnh lệnh sẽ không đủ tính nhân văn. Thay vì bắt con người làm việc trong một quy trình khép kín (quy trình đóng) thì hãy đưa ra cho họ mục tiêu, họ có thể tạo ra hiệu suất cao hơn và họ sẽ tìm ra những cách thức tối ưu, sáng tạo hơn trong công việc.

Có rất nhiều mô hình quản trị theo mục tiêu. Đó là:

  • Chỉ tiêu + Chiến thuật + Thước đo: OGSM
  • Cân bằng + Thước đo: BSC – KPI
  • Nhân tố thành công + Thước đo: CSF – KPI
  • Thước đo kết quả: KRA – KPI
  • Đơn giản + Quan trọng + Thước đo: O – KR

Cac phuong phap quan ly MBO

Như vậy, sự phát triển các lý thuyết về quản lý có sự khác biệt do các tư tưởng quản lý xuất hiện vào những thời điểm khác nhau, dựa trên những quan điểm khác nhau về hành vi của con người trong tổ chức, công việc của người quản trị, những mục tiêu chủ yếu của tổ chức, những vấn đề mà tổ chức phải đối diện…